Tiểu sử của Hồ Tông Thốc (1324 - 1404)
Ông là một vị quan, nhà sử học của Việt Nam vào thời vua Trần Nghệ Tông. Ông làm quan cho triều Trần tới chức Hàn Lâm học sĩ phụng chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ, soạn các bộ sách sử như Việt Nam thế chí (01 bộ); Việt sử cương mục (01 bộ), nay đã thất lạc, mất năm 80 tuổi.
Hồ Tông Thốc (1324 - 1404):
Cuộc đời và sự kiện liên quan đến Hồ Tông Thốc:
Năm | Tuổi | Địa điểm | Sự kiện |
---|---|---|---|
1324 | ... | ... | Hồ Tông Thốc được sinh ra |
1404 | 80 tuổi | ... | Hồ Tông Thốc mất |
Thân thế và sự nghiệp của Hồ Tông Thốc:
Ông là một vị quan, nhà sử học của Việt Nam vào thời vua Trần Nghệ Tông. Ông làm quan cho triều Trần tới chức Hàn Lâm học sĩ phụng chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ, soạn các bộ sách sử như Việt Nam thế chí (01 bộ); Việt sử cương mục (01 bộ), nay đã thất lạc, mất năm 80 tuổi.
Tên của ông nguyên là Hồ Tông Thốc, song sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (gọi tắt là Cương mục) ghi là Hồ Tôn Thốc (đổi sang Tôn) do kiêng húy nhà Nguyễn.Ông người ở Sĩ Thành, Diễn Châu, nay là xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
Hồ Tông Thốc tuổi trẻ đã đỗ cao, có tài danh. Khi chưa nổi danh, gặp tết Nguyên tiêu, có đạo nhân là Lê Pháp Quan treo đèn đặt tiệc, mời khách văn chương đến dự làm vui. Hồ Tông Thốc nhận thiếp xin đề thơ, làm xong trăm bài thơ ngay trên bữa tiệc. Mọi người xúm lại xem, rất thán phục. Từ đấy tiếng dậy kinh sư, vì giỏi văn học nên được người đương thời kính trọng.
Dưới triều vua Trần Nghệ Tông, năm 1372, Hồ Tông Thốc được làm Hàn Lâm viện học sĩ. Trước kia Hồ Tông Thốc làm An phủ, có lấy của dân, việc bị phát giác, vua Trần Nghệ Tông thấy làm lạ hỏi ông chuyện đó. Tông Thốc lạy tạ thưa rằng: Một con chịu ơn vua, cả nhà ăn lộc trời, vua tha tội cho. Sau ông được thăng nhiều lần, năm 1386 được phong làm Hàn Lâm học sĩ phụng chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ.
Nhà Minh xâm lược Đại Việt, theo phần Văn Tịch chí trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, các sách của Hồ Tông Thốc đã bị nhà Minh tịch thu đem về Kim Lăng, nay đã mất, bao gồm: Thảo nhàn hiệu tần (1 quyển); Việt Nam thế chí (1 bộ); Việt sử cương mục (1 bộ). Các sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích còn chép được mấy bài thơ như Thị ý, Đề Hạng Vương từ (2 bài), Du Động Đình họa Nhị Khê của Hồ Tông Thốc.
Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư bàn về sách Việt sử cương mục của Hồ Tông Thốc:Riêng có bộ “Việt sử cương mục”của Hồ Tông Thốc làm là ghi chép thận trọng mà có phương pháp, bình luận sự việc thiết đáng mà không rườm rà, cũng gần hy vọng được. Nhưng sau cơn binh lửa, sách ấy không truyền.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, trong thời gian đi sứ Trung Quốc ông có làm nhiều bài thơ hay. Trong đó phải nhắc đến bài thơ đuổi hồn ma Hạng Vũ như sau: Thói thường khi đi qua Ô Giang, nơi có đền thờ Hạng Vũ trên bờ sông, ai muốn qua sông an toàn thì phải mua hương và vàng mã để đốt cho Hạng Vũ. Nhưng Hồ Tông Thốc không mua mà cứ giục thuyền đi thẳng, đi đến giữa sông thì chợt nổi sóng gió mịt mù, thuyền như sắp lật nhưng ông không hề sợ mà còn đứng trước mũi thuyền đọc to bốn câu thơ: "Quân bất quân hề, thần bất thần. Như hà miếu mạo tại Giang Tân. Giang Đông tích nhật do hiềm tiểu. Hà tích thiên tiền bách vạn càn". Dịch nghĩa như sau: "Vua chẳng ra vua, tôi chẳng tôi. Trên sông đình miếu để thờ ai? Giang Đông ngày trước còn chê nhỏ. Tiền giấy nay sao lại cố đòi?
Ý bài thơ là Hạng Vũ là tôi nước Sở nhưng quyền uy át vua nhỏ. Lúc đánh thua Lưu Bang có người khuyên ông nên đến Giang Đông để chiêu mộ binh sĩ quay lại tranh thiên hạ với Lưu Bang nhưng ông chê Giang Đông đất hẹp, người thưa khó lập đại nghiệp nên ông quay ra tử chiến với Lưu Bang và bị chết, hành động ấy không phải hành động của người trượng phu. Bài thơ vừa dứt thì sóng gió tắt ngấm, dòng sông êm đềm trở lại. Từ đấy mọi người đi qua sông đều không phải đốt vàng mã nữa. Sau đó Hồ Tông Thốc đến thăm đền thờ Hạng Vũ và có làm bài thơ ca ngợi tính dũng cảm thiện chiến của ông.
Tài liệu tham khảo:
Nhân vật cùng thời kỳ với Hồ Tông Thốc:
Hồ Quý Ly (1336 - 1407)
- 2 thg 12, 2
- 438
Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang (Trung Quốc), sang làm Thái thú Diễn Châu và định cư ở hương Bào Đột, nay là xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hồ Liêm là đời cháu thứ 12 đã dời đến ở hương Đại Lại, Thanh Hóa, làm con nuôi tuyên úy Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ mình. Hồ Quý Ly là cháu bốn đời của cụ Hồ Liêm.
Chu Văn An (1292 - 1370)
- 2 thg 12, 2
- 397
Chu Văn An còn được gọi là Chu An, Chu Văn Trinh, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiều Ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là Thanh Trì, Hà Nội). Là người chính trực, đã từng đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung, bên kia sông Tô Lịch, ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Vua Trần Minh Tông đã mời ông ra làm tư nghiệp Quốc tử giám, dạy cho Thái tử Trần Vượng, tức là vua Trần Hiến Tông tương lai. Đến đời Dụ Tông, ông thấy quyền thần làm nhiều điều vô đạo, ông dâng Thất trảm sớ xin chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương), lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi), dạy học, viết sách cho tới khi mất.
Mạc Đĩnh Chi (1280 - 1346)
- 2 thg 12, 2
- 140
Mạc Đĩnh Chi tên tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động, huyện Chí Linh (nay thuộc xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Năm 1304, ông đỗ Trạng nguyên. Vua thấy tướng mạo xấu có ý chê, ông dâng bài phú "Ngọc tỉnh liên" (sen giếng ngọc) khiến Vua khâm phục, bổ chức Nội thư gia. Về sau ông được cháu 7 đời là Mạc Đăng Dung truy tôn là Kiến Thủy Khâm Ninh Văn Hoàng Đế.
Trần Nhật Duật (1255 - 1330)
- 2 thg 12, 2
- 330
Trần Nhật Duật là con thứ 6 của Trần Thái Tông, sinh tháng 4 năm ất Mão (1255) tại hoàng cung Thăng Long. Ông là người có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba, giữ gìn bờ cõi nước Đại Việt. Sử cũ truyền rằng, khi ông sinh ra, ở cánh tay có chữ Chiêu Văn đồng tử , nhà vua bèn lấy chữ đó đặt tên hiệu cho ông. Lúc lớn lên, ông rất thông minh, có tiếng là người học rộng, hiểu biết nhiều lĩnh vực tri thức. Ngoài việc thông thạo nhiều ngoại ngữ, ông còn có sự hiểu biết sâu rộng về các nước láng giềng
Trần Khánh Dư (? - 1340)
- 2 thg 12, 2
- 106
Trần Khánh Dư quê ở Chí Linh, Hải Dương, là võ tướng thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Được thừa hưởng tước hầu từ người cha Thượng tướng Nhân Huệ Hầu Trần Phó Duyệt. Sau này khi được vua Trần Thánh Tông nhận làm con nuôi ông được hưởng tước Nhân Huệ Vương. Ông nổi tiếng về tài cầm quân và đã góp công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của nhà nước Đại Việt.
Trần Minh Tông (1300 - 1357)
- 2 thg 12, 2
- 233
Trần Minh Tông tên thật là Trần Mạnh, con thứ tư của Trần Anh Tông, mẹ là Chiêu Hiền hoàng thái hậu Trần Thị, con gái của Bảo Nghĩa đại vương Trần Bình Trọng, sinh năm Canh Tý 1300. Ông lên ngôi khi mới 14 tuổi, đổi niên hiệu là Đại Khánh. Triều đại nhà Trần dưới thời ông tiếp tục duy trì sự thịnh vượng của các đời vua trước đã tạo nên.
Trần Hiến Tông (1319 - 1341)
- 2 thg 12, 2
- 257
Vua Trần Hiến Tông tên thật là Trần Vượng sinh ngày 17 tháng 5 năm Kỷ Mùi (1319), là vua thứ sáu nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, là con thứ của vua Trần Minh Tông, mẹ là Minh Từ Hoàng Thái phi Lê Thị. Ông lên ngôi ngày 15 tháng 2 âm lịch năm Kỷ Tị 1329, đặt niên hiệu là Khai Hựu, lấy hiệu là Hiến Tông.
Trần Dụ Tông (1336 - 1369)
- 2 thg 12, 2
- 232
Trần Dụ Tông tên thật là Trần Hạo là vị vua thứ bảy của nhà Trần, là con trai thứ 10 của Trần Minh Tông và là em của Trần Hiến Tông. Mẹ ông là Hiến Từ Hoàng hậu. Ông sinh năm 1336, tại kinh đô Thăng Long (Hà Nội, Việt Nam), cai trị từ năm1341 đến 1369. Khi mới 4 tuổi, Trần Hạo đi chơi ở Hồ Tây, chẳng may bị té xuống nước suýt chết đuối, may nhờ thầy thuốc Trâu Canh dùng kim châm cứu sống. Nhưng cũng vì lần ấy, mà sau này hoàng tử Hạo bị chứng bệnh liệt dương, không người nối dõi tông đường.
Dương Nhật Lễ (? - 1370)
- 2 thg 12, 2
- 234
Dương Nhật Lễ hay Hôn Đức Công là vua Việt Nam trong thời nhà Trần, là người kế vị vua Trần Dụ Tông, ở ngôi từ ngày 15 tháng Sáu năm Kỷ Dậu (tức 18 tháng 7 năm 1369) đến ngày 13 tháng 11 năm Canh Tuất (tức ngày 1 tháng 12 năm 1370), thì bị Cung Định Vương Trần Phủ truất ngôi.
Trần Nghệ Tông (1321 - 1394)
- 2 thg 12, 2
- 217
Trần Nghệ Tông là vị vua thứ 8 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, tên thật là Trần Phủ, sinh năm 1321 tại kinh đô Thăng Long, (Hà Nội), Việt Nam, là con thứ ba của Trần Minh Tông, em của vua Trần Hiến Tông, anh của vua Trần Dụ Tông, mẹ ông là Minh Từ hoàng thái phi Lê Thị. Dưới thời vua Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông ông giữ tước vị Cung Định Vương. Ông là vị Hoàng đế có công lật đổ Dương Nhật Lễ và khôi phục lại cơ đồ cho Vương triều nhà Trần.
Trần Duệ Tông (1337 - 1377)
- 2 thg 12, 2
- 182
Trần Duệ Tông là vua thứ 9 nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, tên thật là Trần Kính, sinh tại kinh đô Thăng Long - Hà Nội, Việt Nam. Ông sinh ngày 2 tháng 6 năm 1337, là con thứ mười một của Trần Minh Tông, em của ba vị vua Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông và Trần Nghệ Tông. Mẹ ông là Đôn Từ Hoàng Thái phi. Ông là một con người có cá tính và đầy quyết đoán.
Trần Phế Đế (1361 - 1388)
- 2 thg 12, 2
- 144
Trần Phế Đế tên huý là Trần Hiệu, là vị Hoàng đế thứ mười của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, sinh ngày 6 tháng 3 năm Tân Sửu - 1361 tại kinh đô Thăng Long (Hà Nội, Việt Nam). Ông ở ngôi từ năm 1377 đến 1388. Trần Phế Đế con trưởng của Duệ Tông, mẹ là bà Gia Từ hoàng hậu Lê Thị. Sau khi vua cha Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, Trần Hiện được bác là thượng hoàng Nghệ Tông đưa lên ngôi. Khi lên nối ngôi, ông mới 16 tuổi, mọi quyền hành vẫn do Thượng hoàng Trần Nghệ Tông nắm giữ.
Trần Thuận Tông (1378 - 1399)
- 2 thg 12, 2
- 203
Trần Thuận Tông là vua thứ 11 nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, tên thật là Trần Ngung, sinh tại kinh đô Thăng Long, Hà Nội, Việt Nam. Thuận Tông là con út của thượng hoàng Trần Nghệ Tông, khi còn nhỏ được phong là Chiêu Định Vương, lên làm vua khi mới 11 tuổi, lập con gái trưởng của Hồ Quý Ly là Thánh Ngâu làm hoàng hậu. Ông ở ngôi được 10 năm, xuất gia hơn 1 năm, thì bị Hồ Qúy Ly giết, thọ 22 tuổi.
Trần Thiếu Đế (1396 - ?)
- 2 thg 12, 2
- 243
Trần Thiếu Đế là vua thứ 12 và là vua cuối cùng của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, tên húy là An sinh tại kinh đô Thăng Long (Hà Nội, Việt Nam). Trần Thiếu Đế là con trưởng của vua Trần Thuận Tông, mẹ là Khâm Thánh hoàng hậu Thánh Ngâu (con gái lớn của Hồ Quý Ly). Trần Thiếu Đế sinh năm 1396, lên ngôi tháng 3 năm Mậu Dần (1398) lúc mới chỉ có 2 tuôi, thậm chí còn chưa biết lẫy. Hồ Quý Ly thao túng triều đình nhà Trần, sau khi phế truất Thuận Tông, đưa Thiếu Đế lên ngôi nhằm từng bước đoạt ngôi của nhà Trần. Thiếu Đế tuy gọi là vua nhưng chỉ là hư vị.
Trương Hán Siêu (? - 1354)
- 2 thg 12, 2
- 171
Ông là người đề xuất kế hoạch vườn không nhà trống đã được Trần Hưng Đạo áp dụng mà nhờ đó giúp dân Đại Việt chống trả thành công cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông.
Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370)
- 2 thg 12, 2
- 170
Nguyễn Trung Ngạn tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay là Ân Thi), tỉnh Hưng Yên. Nguyễn Trung Ngạn từ nhỏ đã thông minh xuất chúng, nổi tiếng thần đồng.
Hồ Nguyên Trừng (1374 - 1446)
- 2 thg 12, 2
- 178
Hồ Nguyên Trừng còn có tên là Lê Trừng là nhà kỹ thuật quân sự, là một công trình sư lỗi lạc, ông cũng là người phát minh ra phương pháp đúc súng "thần cơ". Hồ Nguyên Trừng là người huyện Vĩnh Phúc, lộ Thanh Hoa (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa). Ông là con trai cả của vua Hồ Quý Ly, và là anh của vua Hồ Hán Thương. Dưới triều nhà Trần, Hồ Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng Lân tự, Tư đồ. Đầu năm 1400, cha ông truất ngôi Trần Thiếu Đế, tự lên ngôi vua, lập nên nhà Hồ. Sau đó, Hồ Nguyên Trừng được cử làm Tả tướng quốc.
Nguyễn cảnh Chân (1355 - 1409)
- 2 thg 12, 2
- 98
Nguyễn Cảnh Chân là danh tướng chống quân Minh đời Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông người làng Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Cuối thời nhà Trần, Nguyễn Cảnh Chân làm an phủ sứ Hoá Châu (nay là Thừa Thiên-Huế). Sau khi Hồ Hán Thương lên ngôi vua, Nguyễn Cảnh Chân được phong làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa cai quản các châu phía Nam mới chiếm của Chiêm Thành.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442)
- 2 thg 12, 2
- 172
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương) sau rời về làng Ngọc Ổi (nay thuộc Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quí tộc. Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh năm 1400 và từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi đất nước bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo và trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh.
Lê Thái Tổ (1385 - 1433)
- 2 thg 12, 2
- 124
Lê Thái Tổ tên húy là Lê Lợi, là người khởi xướng khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh trở thành vị Hoàng đế đầu tiên của triều Hậu Lê. Lê Lợi là con của Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Ngọc Thương. Ông sinh vào giờ tý ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu, tức ngày 10 tháng 9 năm 1385 tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa.
Nguyễn Xí (1396 - 1465)
- 2 thg 12, 2
- 110
Nguyễn Xí là công thần khai quốc nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, sinh ra ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, gốc người làng Cương Gián, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, Việt Nam. Nguyễn Xí sinh năm Đinh Sửu (1397) tại làng Thượng Xá, huyện Chân Phúc (nay là huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An) trong một gia đình làm nghề buôn bán muối rất nghèo khổ. Năm 1405, thân phụ ông là Nguyễn Hội qua đời, ông được người anh ruột là Nguyễn Biện đưa ra Lam Sơn và được Lê Lợi nuôi trong nhà như con.
Nguyễn Chích (1382 - 1448)
- 2 thg 12, 2
- 136
Nguyễn Chích hay Nguyễn Chính là công thần khai quốc nhà Lê sơ, người tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông quê ở xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Khi quân Minh xâm lược nước ta, cuộc kháng chiến do nhà Hồ lãnh đạo bị thất bại, Nguyễn Chích đã phát động và lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa khá lớn ở ngay vùng Hoàng Sơn và Nghiêu Sơn. Ông đã lập nên một khu căn cứ rất lợi hại tại vùng này sử gọi là khu căn cứ Hoàng-Nghiêu. Ở đấy, lực lượng của Nguyễn Chích đã có lúc lên tới hơn một ngàn người và ông đã từng cho quân đi đánh phá khắp các vùng Đông Sơn, Nông Cống, Ngọc Sơn... khiến cho quân Minh phải nhiều phen chống đỡ rất vất vả.
Trần Nguyên Đán (1325 - 1390)
- 2 thg 12, 2
- 135
Trần Nguyên Đán hiệu Băng Hồ tử, ông quê ở Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay là thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định). Thân phụ ông là Uy Túc công Trần Văn Bích giữ chức Nhập nội Thái bảo, từng giúp Văn miếu gây nên nghiệp thái bình. Tổ là Văn Túc vương Trần Đạo Tái, 14 tuổi đã đỗ Bảng nhãn. Tổ bốn đời là Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải, con thứ vua Trần Thái Tông.
Đào Sư Tích (1348 - 1396)
- 29 thg 9, 2014
- 85
Người làng Cổ Lễ, huyện Nam Chân(sau đổi là huyện Nam Trực), phủ Thiên Trường. Nay là thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Ông đỗ trạng nguyên khoa Giáp Dần niên hiệu Long Khánh thứ 2 (1374), đời Trần Duệ Tông. Sau khi qua đời dân làng Cổ Lễ thờ ông làm thành hoàng, được nhiều triều đại vua chúa ban sắc cho làm thượng đẳng thần.
Huyền Quang (1254 - 1334)
- 29 thg 9, 2014
- 95
Tên thật là Lý Đạo Tái, người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang. Nay là làng Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Học giỏi, đỗ cả thi hương, thi hội. Ông đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ (trạng nguyên) khoa thi năm 1272 hay 1274 và được bổ làm việc trong Viện Nội Hàn của triều đình, tiếp sư Bắc triều, nổi tiếng văn thơ. Sau này từ chức đi tu, theo Trần Nhân Tông lên Trúc Lâm. Là một Thiền sư Việt Nam, tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử. Ông là một nhà thơ lớn với nhiều bài thơ còn được lưu lại. Cùng với Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông và Pháp Loa, ông được xem là một Đại thiền sư của Việt Nam và người ta xem ông và hai vị nêu trên ngang hàng với sáu vị tổ của Thiền tông Trung Quốc hoặc 28 vị tổ của Thiền Ấn Độ.
Tuệ Tĩnh (1330 - ?)
- 24 thg 10, 2014
- 146
Tuệ Tĩnh được phong là ông tổ ngành dược VN và là người mở đầu cho nền y dược cổ truyền VN. Các bộ sách Nam Dược thần hiệu và Hồng Nghĩa tư giác y thư của ông không chỉ có ý nghĩa trong lịch sử y học mà cả trong lịch sử văn học VN.
Nguyễn Phi Khanh (1355 - 1428)
- 9 thg 11, 2014
- 94
Nguyễn Phi Khanh tên thật là Nguyễn Ứng Long, hiệu là Nhị Khê, đến đầu đời Hồ (khoảng năm 1401) đổi tên là Nguyễn Phi Khanh, sinh khoảng năm 1355 (?) tại Nhị Khê,huyện Thượng Phúc, phủ Quốc Oai,trấn Sơn Nam Thượng. Tổ tiên xa đời của ông vốn ở xã Chi Ngại huyện Phượng Nhãn trấn Kinh Bắc.
Nguyễn An (1381 - 1449)
- 9 thg 11, 2014
- 91
Nguyễn An, còn gọi là A Lưu (tên gọi ở Trung Hoa), kiến trúc sư thời xưa, người Việt. Ông là tổng công trình sư và cùng với Sái Tín là kiến trúc sư trưởng của Tử Cấm Thành Bắc Kinh, Trung Quốc. Ông cũng tham gia trị thủy hệ thống sông Hoàng Hà.
Đoàn Nhữ Hài (1280 - 1335)
- 10 thg 11, 2014
- 123
Đoàn Nhữ Hài người làng Hội Xuyên, huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu (nay là huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương), là một danh thần đời nhà Trần. Ông làm quan trải ba đời vua Trần Anh Tông (1293-1214), Trần Minh Tông (1314-1329) và Trần Hiến Tông (1329-1341), là người có năng lực hoạt động về ngoại giao và nội trị, lần lượt nắm giữ các chức vụ Ngự sử trung tán, Tham tri chính sự, Hành khiển, Thiên tử chiêu dụ sứ, Kinh lược Nghệ An. Ông hy sinh trong cuộc chinh phạt Ai Lao năm 1335.
Huyền Trân (1287 - 1340)
- 10 thg 11, 2014
- 215
Công chúa Huyền Trân (1287 – 1340), con gái vua Trần Nhân Tông và hoàng hậu Thiên Cảm, hạ giá lấy vua nước Champa Chế Mân. Chính nhờ cuộc hôn nhân này một mặt làm cho mối quan hệ giao bang Đại Việt – Chăm pa trở nên thân thiết gây áp lực đến Trung Quốc ở phương Bắc. Mặt khác, sau cuộc hôn nhân này, lãnh thổ của Đại Việt được mở rộng về phía Nam
Nguyễn Thị Lộ (1400 - 1442)
- 17 thg 3, 2015
- 46
Nguyễn Thị Lộ (1400 - 1442), quê làng Hải Hồ nổi tiếng với nghề dệt chiếu (còn gọi làng Hới – Thái Bình ngày nay). Xuất thân trong gia đình nhà nông nhưng Nguyễn Thị Lộ được nuôi dạy rất bài bản, ăn học đến nơi đến chốn, kinh thư đều thông thuộc, văn chương chữ nghĩa phong phú. Trong một lần lên kinh thành bán chiếu, bà tương ngộ với Nguyễn Trãi và sau trở thành vợ thứ của ông. Vốn là người nhạy bén, làu thông kinh sử, bà là người kề cận giúp đỡ Nguyễn Trãi trong mọi việc.
Hồ Tông Thốc (1324 - 1404)
- 8 thg 12, 2022
- 0
Ông là một vị quan, nhà sử học của Việt Nam vào thời vua Trần Nghệ Tông. Ông làm quan cho triều Trần tới chức Hàn Lâm học sĩ phụng chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ, soạn các bộ sách sử như Việt Nam thế chí (01 bộ); Việt sử cương mục (01 bộ), nay đã thất lạc, mất năm 80 tuổi.
Tranh luật nhân quả trong cuộc sống
Tranh luật nhân quả trong cuộc sống