Tiểu sử của Đào Duy Từ (1572 - 1634)
Đào Duy Từ hiệu là Lộc Khê, quê ở xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hoa, Đại Việt, là người Thầy (quân sư) chính trị gia, quân sự, văn hóa và nhà thơ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, đệ nhất khai quốc công thần của các Chúa Nguyễn và nhà Nguyễn. Cha ông tên là Đào Tá Hán, một xướng hát chuyên nghiệp. Mẹ ông là người họ Nguyễn. Ông thông minh, và học rộng biết nhiều.
Đào Duy Từ (1572 - 1634):
Cuộc đời và sự kiện liên quan đến Đào Duy Từ:
Năm | Tuổi | Địa điểm | Sự kiện |
---|---|---|---|
1572 | ... | ... | Đào Duy Từ được sinh ra |
1672 | 100 tuổi | Quảng Bình Đồng Hới | Trận Lũy Thầy |
1634 | 62 tuổi | ... | Đào Duy Từ mất |
Thân thế và sự nghiệp của Đào Duy Từ:
Đào Duy Từ hiệu là Lộc Khê, quê ở xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hoa, Đại Việt, là người Thầy (quân sư) chính trị gia, quân sự, văn hóa và nhà thơ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, đệ nhất khai quốc công thần của các Chúa Nguyễn và nhà Nguyễn. Cha ông tên là Đào Tá Hán, một xướng hát chuyên nghiệp. Mẹ ông là người họ Nguyễn. Ông thông minh, và học rộng biết nhiều.
Muà thu năm Nhâm Thìn (1592) Bình An Vương Trịnh Tùng hạ lệnh mở khoa thi. Bấy giờ Đào đã 21 tuổi, tìm đến kinh kỳ những monh tranh lèo giật giải, nhưng vì là giòng dõi hát chèo nên theo luật pháp hồi ấy không được dự thi.
Thấy ở Bắc khó đường tiến thủ, Đào quyết vào Nam. Vì nghèo, lại lạ người lạ cảnh, bất đắc dĩ ông phải đi ăn xin làng này qua làng khác, lần hồi đến tận tỉnh Bình Định mới dừng gót giang hồ. Nghe đồn Lê Phú ở làng Tài Lương là tay cự phú, đang cần người chăn trâu, ông liền tới xin việc. Từ đó ngày ngày ông đuổi trâu ra đồng ăn cỏ, mình thì tìm chỗ cây cao bóng mát ngồi nấu sử sôi kinh. Đêm đến về nhà, rúc vào cót lúa mà ngủ.
Lê Phú đãi Đào vào bậc gia sư, lại giới thiệu với quan Khám lý Trần Đức Hoà ở huyện Bồng Sơn. Quan Khám lý thấy Đào học vấn uyên thâm, kiến thức trác tuyệt, bèn mời đến nhà dạy học và ít lâu sau gả con gái cho.
Ông làm quan với Chúa Nguyễn từ năm 1627 đến năm 1634 đã xây dựng cho nhà Nguyễn một định chế chính trị rất được lòng dân, cơ sở xã hội vững chắc và một quân đội hùng mạnh. Sau khi ông mất (1634) triều Nguyễn còn truyền được 7 đời (131 năm).
Đến năm 1735, Vũ Vương mất, thế tử chết, Trương Phúc Loan chuyên quyền, lòng người li tán, nhà Tây Sơn nổi lên chiếm đất Quy Nhơn, họ Trịnh lấy đất Phú Xuân, thì cơ nghiệp nhà Nguyễn mới bị xiêu đổ.
Sau khi Nguyễn Phúc Ánh diệt nhà Tây Sơn và khai sinh triều Nguyễn, 'năm Gia Long 4 (1805) nhà Nguyễn xét công trạng khai quốc công thần, Đào Duy Từ được xếp hàng đầu, được thờ ở nhà Thái miếu, được cấp 15 mẫu tự điền và sáu người trông coi phần mộ. Đến năm Minh Mệnh 17 (1836), triều đình lại sai dân sở tại sửa chữa lăng mộ cho ông. 'Năm 1932, vua Bảo Đại ra chiếu sắc phong Đào Duy Từ làm Thần Hoàng làng Lạc Giao, đất "Hoàng triều cương thổ" ở Buôn Ma Thuột, Tây Nguyên.'
Đào Duy Từ mất ngày 17 tháng 10 năm 1634, thọ 63 tuổi, được phong tặng làm Tán-trị Dực Văn Kim Tử Đại-Phu.ngùi thương cảm Đào Duy Từ như thương cảm vận nước xoay vần sao lắm nỗi điêu linh...
Tài liệu tham khảo:
Nhân vật cùng thời kỳ với Đào Duy Từ:
Nguyễn Hoàng (1525 - 1613)
- 2 thg 12, 2
- 110
Nguyễn Hoàng là con trai thứ hai của An Thành Hầu Nguyễn Kim, ông sinh ngày 28/8/1525 tại Thanh Hóa. Theo Phả hệ họ Nguyễn ở Gia Miêu, ông là hậu duệ của Nguyễn Bặc.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585)
- 2 thg 12, 2
- 165
Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt, sinh năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông (1491), ở thời kỳ được coi là thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Thân phụ của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ. Mẹ của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông, bà là người phụ nữ có bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số.
Trịnh Tráng (1577 - 1657)
- 2 thg 12, 2
- 86
Trịnh Tráng là chúa Trịnh thứ 3 thời Lê Trung Hưng và là chúa thứ hai chính thức xưng vương khi còn tại vị, nắm thực quyền cai trị miền Bắc nước Đại Việt từ năm 1623 đến 1657. Về chính trị, ông là người củng cố địa vị cai trị của chế độ "vua Lê chúa Trịnh"; về quân sự, thời kỳ ông cầm quyền là bước chuyển căn bản giữa hai cuộc xung đột Nam-Bắc triều và Trịnh-Nguyễn. Ông là con trưởng của Bình An Vương Trịnh Tùng.
Trịnh Tùng (1550 - 1623)
- 2 thg 12, 2
- 103
Trịnh Tùng là vị chúa Trịnh đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Xét theo thế thứ, ông là đời thứ hai của họ Trịnh kế tục nhau lãnh binh quyền "phù Lê". Tuy nhiên, vì cha của Trịnh Tùng là Trịnh Kiểm chỉ mới được phong tước công. Thụy hiệu Thái Vương của Trịnh Kiểm là do đời sau đặt. Phải từ thời Trịnh Tùng trở đi, họ Trịnh mới nhận tước vương khi còn tại vị, được gọi là chúa và lập thế tử, nên ông được xem là vị chúa Trịnh chính thức đầu tiên. Ông người làng Sáo Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá, Việt Nam. Mẹ Trịnh Tùng là Nguyễn Thị Ngọc Bảo, con gái Nguyễn Kim và là vợ thứ Trịnh Kiểm
Đặng Công Chất (1621 - 1683)
- 29 thg 9, 2014
- 126
Đặng Công Chất là người làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Nguyên quán của ông là xã Thái Bát, huyện Bất Bạt (nay thuộc xã Tòng Bạt, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội). Đỗ trạng nguyên khoa Tân Sửu, niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 4 (1661) thời vua Lê Thần Tông.
Giáp Hải (1515 - 1585)
- 29 thg 9, 2014
- 90
Sau đổi tên là Giáp Trừng, hiệu Tiết Trai, người làng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhãn (nay thuộc xã Dĩnh Trì, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang), còn gọi là Trạng Kế hay Trạng Ác- do tính ông rất ngay thẳng. Ông đỗ Trạng nguyên năm Đại Chính thứ 9, Mậu Tuất (1538), đời Mạc Thái Tông. Sáng tác của ông hiện nay cũng không rõ là có bao nhiêu, nhưng có một cuốn được Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục nhắc tới là Bang giao bị lãm. Giáp Hải mất năm 1585, sắc phong Sách quốc công.
Đào Duy Từ (1572 - 1634)
- 1 thg 11, 2014
- 103
Đào Duy Từ hiệu là Lộc Khê, quê ở xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hoa, Đại Việt, là người Thầy (quân sư) chính trị gia, quân sự, văn hóa và nhà thơ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, đệ nhất khai quốc công thần của các Chúa Nguyễn và nhà Nguyễn. Cha ông tên là Đào Tá Hán, một xướng hát chuyên nghiệp. Mẹ ông là người họ Nguyễn. Ông thông minh, và học rộng biết nhiều.
Nguyễn Văn Giai (1553 - 1628)
- 8 thg 11, 2014
- 80
Nguyễn Văn Giai sinh vào đêm 22 tháng Chạp năm Giáp Dần, tức ngày 14 tháng 1 năm 1553, là người thôn Phù Lưu Trường, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh) là một Tam nguyên Hoàng giáp, từng giữ chức Tể tướng, tước Thái bảo, Quận công, công thần "khai quốc" thời Lê trung hưng, nổi tiếng chính trực và biết giữ nghiêm pháp luật triều đình, có công bình định nhà Mạc, ông đồng thời cũng là một nhà thơ
Lê Công Hành (1606 - 1661)
- 8 thg 11, 2014
- 110
Lê Công Hành sống ở cuối đời Trần, đầu đời Lê (khoảng thế kỷ 14), sinh ngày 18 tháng Giêng năm Bính Ngọ (1606), tên thật là Bùi Công Hành tại xã Quất Động, tổng Bình Lăng, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông cũ (nay là thôn Quất Động, xã Quất Động, huyện Thường Tín, Hà Nội). Cuối đời Trần, ông lên đường dự thi vừa lúc quân Minh sang xâm lược nên khoa thi bị hủy. Ông ẩn náu trong rừng rồi theo Lê Lợi kháng chiến chống quân Minh. Cuộc bình Ngô thành công, ông được Lê Thái Tổ trọng dụng.
Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613)
- 8 thg 11, 2014
- 90
Phùng Khắc Khoan, danh sĩ thời Lê Thế Tông, hiệu Nghị Trai, tự Hoằng Phu, sinh năm 1528 ở xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội.
Nguyễn Thần Tông (1601 - 31648)
- 23 thg 3, 2015
- 34
Nguyễn Phúc Lan còn gọi là Thần Tông Hiếu Chiểu Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Lan, con thứ hai của đức Hy Tông Nguyễn Phúc Nguyên và Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai. Ông sinh 13.8.1601), là vị chúa Nguyễn thứ 3 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi từ năm 1635 đến năm 1648, tổng cộng được 13 năm.Lúc lên ngôi chúa, ông tự xưng Vương, hiệu là Công Thượng vương, xứ Đàng Trong gọi ông là Chúa Thượng. Về sau, vua Gia Long mới truy phong Nguyễn Phúc Lan miếu hiệu Thần Tông.
Nguyễn Phúc Tần (1620 - 1687)
- 23 thg 3, 2015
- 51
Nguyễn Phúc Tần (16.7.1620 - 30.4.1687) tên thường gọi là Hiền Vương, là con trai thứ 2 của chúa Nguyễn Phúc Lan, là vị chúa thứ 4 của nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Ông ở ngôi từ năm 1648-1687, tại vị được 39 năm.
Tranh luật nhân quả trong cuộc sống
Tranh luật nhân quả trong cuộc sống