Tô Hoài mất năm bao nhiêu?

Thông tin về năm mất và cuộc đời của Tô Hoài

Trả lời:

Tô Hoài mất năm 2014.

Thân thế và sự nghiệp của Tô Hoài:

Ông là một nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật Đợt 1 (1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.


Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam). Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức.
Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,... nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc.
Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác.
Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi.
Tô Hoài, nhà văn của mọi lứa tuổi
Tô Hoài là một trong những tên tuổi lớn của văn học hiện đại Việt Nam. Với 94 năm tuổi đời và hơn 70 năm tuổi nghề cùng số lượng tác phẩm đồ sộ, gần 200 đầu sách trải rộng trên nhiều mảng đề tài, có thể nói, Tô Hoài là nhà văn của nhiều thời, nhiều tầng lớp, nhiều độ tuổi khác nhau, một tác giả có tầm ảnh hưởng lớn đến nền văn học nghệ thuật nước nhà.
Được mệnh danh là “Nhà văn của mọi lứa tuổi” - nhà văn Tô Hoài đã để lại dấu ấn rực rỡ trên nhiều mảng sáng tác: Những truyện đồng thoại cho thiếu nhi; những tác phẩm về con người và cuộc và cuộc sống vùng cao; Nhà văn kể chuyện Hà Nội xưa hay nhất, người viết tự truyện như tiểu thuyết...

Tên tuổi lớn của văn học Việt Nam

Nhà văn Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27/9/1920 tại quê ngoại là làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ (nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội) trong gia đình có truyền thống làm giấy dó. Đây cũng là nơi nhà văn đã sinh sống và gắn bó suốt những năm tháng ấu thơ cho đến lúc trưởng thành.

Thời thanh niên, Tô Hoài phải trải qua nhiều nghề khác nhau. Ông đến với nghề văn ở tuổi mười tám, đôi mươi và lấy bút danh là Tô Hoài (ghép từ tên đầu của con sông Tô Lịch chảy qua làng Nghĩa Đô nơi ông sống và phủ Hoài Đức nguyên quán của ông).

Những sáng tác đầu tay của Tô Hoài được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy đã nhanh chóng được bạn đọc đương thời chú ý. Ông sớm khẳng định được vị trí của mình bằng một loạt tác phẩm độc đáo, đặc sắc như: “Con dế mèn”, sau này được ông viết bổ sung và đổi tên thành “Dế Mèn phiêu lưu ký”, “Quê người”, “O chuột”, “Trăng thề”, “Nhà nghèo”… Từ các tác phẩm này, người đọc nhận thấy sức sáng tạo dồi dào của cây bút trẻ với hai chủ đề chính là truyện về loài vật và truyện về làng ven đô trong cảnh đói nghèo.

Có lẽ, từ trước cho đến nay, trong văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào viết về loài vật nhiều và đặc sắc như Tô Hoài. Qua những tác phẩm tiêu biểu như: “Dế Mèn phiêu lưu ký”, “O chuột”, “Gã chuột bạch”, “Tuổi trẻ”, “Đôi ri đá”, “Một cuộc bể dâu”, “Mụ ngan”... thế giới loài vật của Tô Hoài thật độc đáo, gợi lên sự liên tưởng về nhiều vấn đề trong đời sống xã hội.

Bên cạnh truyện viết về loài vật, mảng truyện viết về cảnh đời lầm than cũng được ông miêu tả chân thật và sinh động. Cuộc sống cùng quẫn bế tắc của những kiếp người nghèo khổ, lang thang, phiêu bạt nơi đất khách quê người, những người thợ thủ công bị phá sản hiện lên qua từng trang sách với tất cả niềm cảm thông chân thành của nhà văn. Với những bà lão Vối (Mẹ già), chị Hối (Ông cúm bà co), Hương Cay (Khách nợ), gia đình anh Hối (Buổi chiều ở trong nhà)... cảnh đời của những thân phận cơ cực ấy khiến người đọc trăn trở về hiện thực đầy bất hạnh.

Sau năm 1945, Tô Hoài có sự chuyển biến về tư duy sáng tác. Ông nhanh chóng thâm nhập hiện thực cuộc sống và sáng tạo thành công nhiều tác phẩm có giá trị ở các thể loại loại khác nhau. Bước chuyển trong sáng tác của Tô Hoài được thể hiện rõ ở cả chủ đề và đề tài. Tô Hoài không bó hẹp nội dung và đối tượng phản ánh trong phạm vi của một vùng quê nghèo ngoại thành Hà Nội nơi ông từng gắn bó như trước mà hướng đến không gian rộng lớn, đến với cuộc sống của nhiều lớp người, nhiều vùng đất khác nhau. Ông viết về miền núi, với các tập “Núi Cứu quốc”, “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”... Ông viết về những người anh hùng dân tộc thiểu số dũng cảm, thủy chung sắt son, hiến dâng cuộc đời mình cho đất nước, quê hương như “Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ”, “Kim Đồng”, “Giàng A Thào”, “Vừ A Dính”...

Sau này, ngòi bút của ông vẫn hướng về xã hội trước 1945 với cách nhìn, sự suy ngẫm sâu sắc hơn. Ông viết “Mười năm”, với tầm nhận thức từ chỗ đứng của cuộc sống hiện tại nhiều đổi thay mang ý nghĩa lớn trong đời sống dân tộc. Tiếp tục mạch sáng tác hoài niệm ấy, qua những “Quê nhà”, “Những ngõ phố, người đường phố”, “Chuyện cũ Hà Nội”... cho thấy vốn sống, nguồn tư liệu, cũng như nguồn cảm hứng sáng tác của Tô Hoài về Hà Nội vô cùng phong phú đa dạng. Từ các tác phẩm viết về Hà Nội của ông, người đọc hiểu hơn về phong tục, nếp sinh hoạt, tên gọi phố phường, con người Hà Nội trải dài suốt cả thế kỉ XX trong đời thường, trong chiến tranh và trong hòa bình.

Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam nhận định: Riêng về Hà Nội, Tô Hoài là một cây bút cự phách. Cùng với Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng... Tô Hoài đã để lại nhiều trang văn xuất sắc vì câu chữ của ông không những thể hiện được văn hóa, phong tục mà còn thể hiện được "cái hồn" của người Hà Nội. Không chỉ Hà Nội hôm nay mà cả Hà Nội “chuyện cũ” đều được Tô Hoài quan tâm thể hiện.

Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Tô Hoài còn đạt được thành tựu đặc sắc ở thể ký. Nhiều tác phẩm ký của ông ra đời sau những chuyến đi về các miền đất như “Nhật ký vùng cao”, “Lên Sùng Đô”... hay tới thăm nước bạn như “Tôi thăm Campuchia”, “Thành phố Lê-nin”, “Hoa hồng vàng song cửa”... Đặc biệt, các tập hồi ký của Tô Hoài luôn gắn liền với bao nỗi vui buồn và mơ ước của tuổi thơ, bao kỷ niệm về những bạn văn, đời văn của ông như “Cỏ dại”, “Tự truyện”, “Cát bụi chân ai”, “Chiều chiều”...

Nói về nhà văn Tô Hoài, Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đăng Điệp cho rằng, Tô Hoài là nhà văn của mọi lứa tuổi. Nghĩa là trẻ thơ, người lớn, tất cả đều có thể soi mình trong Tô Hoài. Nếu tính về lượng, Tô Hoài đứng đầu bảng với gần 200 đầu sách. Nếu tính về tinh, ông là một nhà văn đạt đến độ cao nhất của nghề chữ. Tô Hoài có một “bồ chữ” theo đúng nghĩa của nó. Viết nhiều, nhưng trước sau, Tô Hoài vẫn trở đi trở lại với hai vùng đất con người, phong thổ ngoại ô Hà Nội và vùng đất Tây Bắc, nơi ông đã gắn bó sâu sắc trong thời kháng Pháp và sau đó còn trở lại nhiều lần.

“Tô Hoài nhìn cõi nhân sinh này, nhìn cõi đời này không ở chỗ thi vị và lãng mạn hóa, ông nhìn cuộc đời không có gì nghiêm trọng nhưng cũng rất nghiêm trọng, ông không kể gì cao xa, ông kể câu chuyện quanh mình, về mình, câu chuyện của bạn mình và của những người gần gũi với mình”, Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đăng Điệp nói.

Nhà văn của thiếu nhi

Suốt cuộc đời gần 80 năm sáng tạo bền bỉ của mình, Tô Hoài đã để lại một lượng tác phẩm đồ sộ với gần 200 đầu sách, trong đó có hơn 60 đầu sách viết cho thiếu nhi ở nhiều thể loại khác nhau.

Nhắc đến Tô Hoài, nhiều người nghĩ ngay đến “Dế mèn phiêu lưu ký”. Hơn hai mươi tuổi , Tô Hoài đã tạo được một kiệt tác ở thể đồng thoại. Theo Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đăng Điệp, “Dế Mèn phiêu lưu ký” được ông viết cho thiếu nhi, nhưng cũng là viết cho người lớn vì ẩn trong tác phẩm này là những bài học nhân sinh sâu sắc. Tại đây, ta nhận thấy sự mẫn cảm và óc quan sát tinh tế của Tô Hoài. Ông tả loài vật nào đúng với bản chất và đặc điểm của loài vật ấy.

“Ống kính của Tô Hoài vừa sắc nét trong việc tái hiện lại các chi tiết, vừa có khả năng tạo ra sự lưu chuyển hợp lý giữa các trường đoạn, màu sắc du ký và màu sắc tự truyện hòa vào nhau hết sức sống động. Với ‘Dế Mèn phiêu lưu ký’, Tô Hoài thực sự là cây bút hàng đầu về nghệ thuật miêu tả thế giới loài vật”, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đăng Điệp đánh giá.

Ngoài “Dế Mèn phiêu lưu ký” nổi tiếng, ông có hàng loạt sáng tác được trẻ em nhiều thế hệ yêu thích như: “Mực tàu giấy bản”, “Nói về cái đầu tôi”, “Ngọn cờ lau”, “Thằng phó”, “Chuyện ông Gióng”, “Võ sĩ Bọ Ngựa”, “Ba anh em”, “Ba bà cháu”, “Câu chuyện ngày chủ nhật”, “Con mèo lười”, “Đám cưới chuột”, “Đảo hoang”, “Chuyện nỏ thần”, “Chim chích lạc rừng”… Ở mảng sáng tác này, dù là đề tài sinh hoạt, cổ tích hay lịch sử, ngay cả khi tuổi tác không còn trẻ, Tô Hoài vẫn có được cách cảm nhận và thể hiện đời sống qua trang văn phù hợp với tâm hồn, nhận thức của tuổi thơ. Và ông đã dẫn dắt các em đến với một thế giới có vô vàn điều kỳ thú, góp phần bồi đắp nhân cách, nuôi dưỡng vẻ đẹp và sự trong sáng, cao thượng cho những tâm hồn thơ bé.

Theo Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đăng Điệp, trong các sáng tác dành cho thiếu nhi của Tô Hoài, yếu tố đặc biệt nhất là ông không giả giọng trẻ con để kể chuyện trẻ con như nhiều cây bút khác từng làm. Ông rất hiểu tư duy trẻ thơ, kể với chúng theo cách nghĩ của chúng, lý giải sự vật theo lô gíc của trẻ. Hơn thế, với biệt tài miêu tả loài vật, nhà văn đã dựng lên một thế giới gần gũi với trẻ thơ. “Truyện thiếu nhi của Tô Hoài không rơi vào tình trạng dạy dỗ cho con trẻ những bài học luân lý cứng nhắc, không bắt chúng tập làm người lớn từ thuở còn bé thơ. Từng bước một, lũ trẻ sẽ hiểu dần được đời sống từ những bài học đường đời đầu tiên”, Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đăng Điệp nói.

Là một tài năng lớn của văn học nghệ thuật nước nhà, Tô Hoài đã đạt nhiều giải thưởng sáng tác như Giải Nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1956 với tập “Truyện Tây Bắc”; Giải A - Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội năm 1970 với tiểu thuyết “Quê nhà”; Giải thưởng của Hội Nhà văn Á - Phi năm 1970 với tiểu thuyết “Miền Tây”; Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt 1, năm 1996 và Giải thưởng Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội năm 2010. Tác phẩm của Tô Hoài đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và giới thiệu tại nhiều quốc gia như Nga, Anh, Trung Quốc, Pháp, Ba Lan, Séc, Đức, Bungari, Cu Ba, Mông Cổ, Nhật Bản.../.
Là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam, nhà văn Tô Hoài đã dành cả cuộc đời để góp nhặt tư liệu cho những trang viết rất đời của mình. Cả đời ông gắn bó với những trang văn và chưa một ngày rời xa nó cho đến khi không thể cầm bút viết được nữa. Với hơn 160 đầu sách đã xuất bản, trong đó có những tác phẩm được tái bản nhiều lần và được dịch ra tiếng nước ngoài, độc giả của nhiều thế hệ đã gắn bó với ông từ bé đến lớn, từ những trang viết vui tươi, ngộ nghĩnh đến những trang viết sâu sắc tình đời, tình người.
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27/9/1920 tại làng Nghĩa Đô, Từ Liêm thuộc phủ Hoài Đức xưa (nay là phường Nghĩa Đô, Hà Nội). Là người gốc Hà Nội, ông hiểu và yêu Hà Nội sâu sắc. Nhiều người cũng gọi Tô Hoài là "Ông già Hà Nội", xem ông như một biểu tượng của trí thức Thủ đô, một chứng nhân của gần một thế kỷ thăng trầm trên đất Hà thành.
Trong bài viết về chân dung Tô Hoài, nhà văn Vũ Bằng chia sẻ: “Có một lần, tôi đã nói chuyện về bút hiệu của Tô Hoài và hỏi xem ai đã đặt cho anh. Tô Hoài cho biết anh chẳng nhờ ai đặt cả. Thấy người ta viết có bút hiệu, anh cũng tự tìm một bút hiệu cho mình. Vì làng Bưởi nơi anh ở có một con sông nổi tiếng là sông Tô Lịch chảy qua, mà ở đấy lại thuộc về phủ Hoài Đức nên anh lấy hai chữ đầu, đặt bút hiệu là Tô Hoài. Thế thôi. Giản dị hết sức: Giản dị như đời anh. Giản dị như lời văn anh”.
Tô Hoài đam mê văn chương từ nhỏ, dù cuộc sống vất vả, lam lũ nhưng ông vẫn tự học Quốc văn, Pháp văn. Học vừa hết tiểu học, ông đã đi vào đời với nhiều nghề để kiếm sống: từ làm thợ dệt, dạy học tư, bán hàng thuê, đến kế toán hiệu buôn… Với tài năng thiên bẩm, óc quan sát tinh tế và những trải nghiệm cuộc sống phong phú, ông bước vào làng văn một cách tự nhiên. Ở tuổi mười bảy, mười tám, những sáng tác đầu tay của ông đã xuất hiện trên “Hà Nội tân văn” và “Tiểu thuyết thứ bảy”.
Sau tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu ký” (1941), bút hiệu Tô Hoài xuất hiện liên tục dưới nhiều truyện ngắn đăng trên “Truyền bá”, “Phổ thông bán nguyệt san”, “Những tác phẩm hay”… Tuy xuất hiện ở giai đoạn cuối của thời kỳ 1930-1945, nhưng Tô Hoài đã sớm khẳng định được vị trí của mình trong đội ngũ nhà văn thời kỳ này bằng một loạt tác phẩm độc đáo, đặc sắc, như: “Quê người” (1941), “O chuột” (1942), “Giăng thề” (1943), “Nhà nghèo” (1944 ). Từ các tác phẩm này, người đọc dễ nhận thấy sức sung mãn dồi dào trong lao động nghệ thuật của ông.

Văn Tô Hoài có gì đó ma mị, nó cứ cuốn người ta vào chuyện tưởng như là những chuyện vặt, nhưng đằng sau đó là những ý tứ sâu sắc mà phải có cái nhìn bao quát môi trường xã hội và thế cuộc mới hiểu.

Sau Cách mạng Tháng Tám, Tô Hoài tiếp tục sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị ở các thể loại. Ông làm báo, viết văn sống gắn bó với núi rừng Việt Bắc, Tây Bắc, theo bộ đội tham gia các chiến dịch… Chính những năm tháng này, Tô Hoài đã có điều kiện thu thập nhiều tư liệu để viết nên “Truyện Tây Bắc”, trong đó có những tác phẩm xuất sắc như “Vợ chồng A Phủ”, “Mường Giơn”… Tập sách đã đưa Tô Hoài đến với những đỉnh cao mới của văn học cách mạng thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

Viết nhiều, nhưng trước sau, Tô Hoài vẫn trở đi trở lại với hai vùng đất là con người, phong thổ ngoại ô Hà Nội và vùng đất Tây Bắc, nơi ông đã gắn bó sâu sắc trong thời kháng Pháp và sau đó còn trở lại nhiều lần. Cắm sâu vào những miền đất đã nên duyên nên số với mình, Tô Hoài điềm tĩnh bóc từng lớp một và khi “người thợ khâu” ấy nối liền các mảnh văn hóa, các số phận trong một sinh thể nghệ thuật, độc giả bỗng ngạc nhiên về sự giàu có của đất và người, của thời gian và không gian, của văn hóa và tâm linh dân tộc.

Vượt ra ngoài phạm vi của tác phẩm văn học, sáng tác của Tô Hoài trở thành dữ liệu dù đã phủ lớp bụi thời gian mơ hồ như chuyện dã sử. Với nhà văn Tô Hoài, “gừng càng già càng cay”. Vào những năm cuối đời, tưởng ngọn đèn đã lay trước gió, vậy mà ông cho ra hai tập hồi ký văn học “Cát bụi chân ai” (1992) và “Chiều chiều” (2000).

Đầu tháng 2 năm 2018, ba cuốn sách quý gồm “Giữ gìn 36 phố phường” (tạp văn), “Những ký ức không chịu ngủ yên” (hồi ký) và “Người con gái xóm Cung” (truyện ngắn) đã lần đầu được công bố, bổ sung vào kho di sản văn chương giàu có của Tô Hoài.
Nhà văn Tô Hoài được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 1, năm 1996) cho các tác phẩm: Xóm Giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế Mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ. Năm 2010, ông còn được trao Giải thưởng Lớn - Giải thưởng Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội.
94 năm tuổi đời và hơn 70 năm tuổi nghề, với gần 200 đầu sách trải rộng trên nhiều mảng đề tài, trong đó có những tác phẩm được tái bản nhiều lần như: “Dế mèn phiêu lưu ký”, “Truyện Tây Bắc”, “Chuyện cũ Hà Nội”, “Chiều chiều”, “Cát bụi chân ai”… Tô Hoài xứng đáng được coi là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại một gia sản văn chương và văn hóa cho các thế hệ mai sau. Đọc văn của ông, độc giả biết thêm rất nhiều những phong tục, tập tục từ sinh hoạt trong gia đình, đến những sinh hoạt cộng đồng lễ hội, ma chay, cưới hỏi… ở nhiều vùng miền khác nhau.
Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam từng nhận định về nhà văn Tô Hoài rằng: có những nhà văn, nhà thơ làm vinh dự cho chữ Hán, làm vinh dự cho chữ Nôm. Anh Tô Hoài, cùng với Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố… làm vinh dự cho chữ Quốc ngữ. Tôi được gần các thế hệ đi trước, càng hiểu giá trị của những giây phút sống bên cạnh họ, kể cả khi các anh im lặng.

Còn theo nhà thơ Trần Đăng Khoa, Tô Hoài là một nhà văn lớn, một ông khổng lồ với số lượng tác phẩm thật đồ sộ. Ông viết đủ các thể loại: từ tiểu thuyết, truyện vừa, bút ký, ký sự, truyện ngắn, hồi ký, tự truyện, tiểu luận phê bình, truyện viết cho thiếu nhi, cho đến cả các bài báo ngắn, các bài điểm sách chỉ bằng một... bàn tay trẻ con. Tô Hoài thực sự là nhà văn chuyên nghiệp. Nghĩa là ông hoàn toàn sống được bằng nghề văn. Ngồi đâu, ông cũng viết được văn, kể cả trong những lúc hội họp.

Việc viết lách đối với nhà văn Tô Hoài là một thứ lao động hàng ngày. Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đánh giá, so với các cây bút đương thời, nhà văn Tô Hoài có lẽ là nhà văn giàu chất chuyên nghiệp bậc nhất. Sống đến đâu viết đến đấy. Ông gần gũi với rất cả mọi người, từ ông tổ trưởng dân phố, đến một người bạn của bác xe ôm, chị bán rau nhưng trên bục văn chương thì ông đứng tầm thế giới, lịch lãm trong ngoại giao, điềm đạm trong ứng xử... Ông là một người thầy lớn đáng trân trọng, kính nể với nhiều thế hệ nhà văn, nhà biên tập và với độc giả thân thiết.

Được coi là “cuốn từ điển sống” về văn hóa và từ ngữ dân gian của Hà Nội, vốn hiểu biết của Tô Hoài giống như nồi cơm Thạch Sanh - xới mãi không hết. Nó vẫn đầy đến những ngày cuối cùng. Theo nhà báo Phương Vũ, con trai ông, đặc điểm lớn nhất mà anh trân trọng ở cha, là cách ông ghi chép tỉ mẩn, sổ ghi chép dày cộp và rất nhiều nhưng cần cái gì, ông dễ dàng tìm đúng quyển sổ ấy. Chính vì vốn tư liệu rất phong phú nên ông viết nhanh và chính xác. Sau khi nhà văn qua đời, còn khoảng chừng hơn 1.500 trang đánh máy các bài viết, tác phẩm, bản thảo của ông chưa từng công bố trong gần 100 cuốn sổ tay được lưu giữ tại gia đình cùng nhiều tài liệu khác. Nhiều trang viết thăm thẳm nỗi niềm về Hà Nội xưa mà đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự.

Ông cũng là người rất chuyên nghiệp và nghiêm khắc trong nghề. Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn kể: “Khi còn là Tổng Biên tập Báo Người Hà Nội, nhà văn Tô Hoài trực tiếp phụ trách các mục như: Văn vật thủ đô, Chuyện cũ Hà Nội… Ông biên tập rất kỹ. Một lần, duyệt bài “Chuyện cũ Hà Nội” có câu: “Phần thưởng là một dải lụa đỏ” và “chiếc kiệu sơn đen”, ông đã ôn tồn giảng giải cho chúng tôi: “Mình đã sửa lại cho đúng: “Phần thưởng là một tấm lụa điều” và “chiếc kiệu sơn then”. “Tấm lụa điều” là cách nói vừa dân dã vừa trân trọng từ ngàn xưa, còn dải lụa đỏ là cách nói rất thực nhưng thô và thiếu trang nhã. “Sơn đen” cũng là tiếng nói của hôm nay. Trong không khí của Chuyện cũ Hà Nội, ta nên dùng đúng từ cổ của các cụ xưa, nghe trang trọng và nho nhã. Các cô các cậu còn trẻ, phải chịu khó đọc nhiều, muốn là người biên tập giỏi thì cái gì cũng phải biết, nhất là câu chữ”.

Một đời cần cù đi và viết như chưa lúc nào ngơi nghỉ, ngày 6-7-2014, nhà văn Tô Hoài đã từ giã cõi đời. Khép lại một hành trình ngót gần thế kỷ, ông đã để lại cho đời nhiều giá trị cao quý.
Ra đời từ chính những ký ức một thời niên thiếu, “Dế mèn phiêu lưu ký” lập tức trở thành tác phẩm văn xuôi đặc sắc và nổi tiếng nhất của Tô Hoài viết cho lứa tuổi thiếu nhi, được đọc nhiều nhất từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với cách quan sát, cái nhìn tinh tế về loài vật, kết hợp với những nhận xét thông minh, hóm hỉnh, nhà văn đã đưa trẻ nhỏ đến với thế giới loài vật sinh động và cũng đầy yêu thương.

Ai đã từng đọc “Dế mèn phiêu lưu ký” chắc chắn sẽ không thể quên tình bạn gắn bó của Dế Mèn, Dế Trũi, Xén Tóc trầm lặng, chị Cào Cào ồn ào duyên dáng, Bọ Ngựa kiêu căng hay Cóc huênh hoang... Mỗi một loài vật, nhà văn lại dùng ngòi bút của mình để lột tả rõ nét tính cách và đời sống riêng của chúng, để từ đó, bày tỏ quan niệm của chính tác giả về nhân sinh, về khát vọng của người lao động, về một cuộc sống hòa bình, yên vui và sự đoàn kết.

Ra đời từ chính những ký ức một thời niên thiếu, “Dế mèn phiêu lưu ký” lập tức trở thành tác phẩm văn xuôi đặc sắc và nổi tiếng nhất của Tô Hoài viết cho lứa tuổi thiếu nhi, được đọc nhiều nhất từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với cách quan sát, cái nhìn tinh tế về loài vật, kết hợp với những nhận xét thông minh, hóm hỉnh, nhà văn đã đưa trẻ nhỏ đến với thế giới loài vật sinh động và cũng đầy yêu thương.

Ai đã từng đọc “Dế mèn phiêu lưu ký” chắc chắn sẽ không thể quên tình bạn gắn bó của Dế Mèn, Dế Trũi, Xén Tóc trầm lặng, chị Cào Cào ồn ào duyên dáng, Bọ Ngựa kiêu căng hay Cóc huênh hoang... Mỗi một loài vật, nhà văn lại dùng ngòi bút của mình để lột tả rõ nét tính cách và đời sống riêng của chúng, để từ đó, bày tỏ quan niệm của chính tác giả về nhân sinh, về khát vọng của người lao động, về một cuộc sống hòa bình, yên vui và sự đoàn kết.
Câu chuyện về chú Dế Mèn không chỉ có ý nghĩa dành cho trẻ em, mà còn cho cả xã hội. Nó thực sự mang giá trị lâu bền trong đời sống tinh thần của con người. Bởi thế, dù ở đâu, ở thời kỳ nào, người đọc vẫn tìm thấy bao điều thú vị, bao bài học ý nghĩa từ tác phẩm này. Vì thế, ''Dế Mèn phiêu lưu ký'' được tái bản nhiều lần, dịch ra 20 thứ tiếng và được bạn bè quốc tế đón nhận nồng nhiệt không thua kém gì những truyện cổ tích kinh điển của Andersen, của anh em nhà Grimm… Năm 2006, Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã trao tặng nhà văn bằng chứng nhận “Nhà văn Tô Hoài với tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu ký được dịch nhiều thứ tiếng nhất”.

Nhân 100 năm Ngày sinh nhà văn Tô Hoài, người được các độc giả nhỏ tuổi nhớ tới với một biệt danh dễ thương “ông Dế mèn”, Nhà xuất bản Kim Đồng đã cho ra mắt bộ sách gồm nhiều ấn phẩm đặc biệt. Nổi bật trong đó là cuốn “Dế Mèn phiêu lưu ký” song ngữ, minh họa của họa sĩ Ngô Mạnh Lân và “Dế Mèn phiêu lưu ký” bản viết tay của nhà văn Tô Hoài, minh họa của họa sĩ Tạ Huy Long. Ngoài ra, độc giả cũng sẽ gặp lại Dế Mèn bản tranh truyện comic của họa sĩ Trương Qua…
Nhân dịp này Nhà xuất bản Kim Đồng cũng ra mắt “Tuyển tập văn học viết cho thiếu nhi”, “Truyện đồng thoại Tô Hoài”, “Chuyện cũ Hà Nội” và ấn phẩm đặc biệt là cuốn “Tự truyện ký” gắn với bao nỗi vui buồn và ước mơ của tuổi thơ, bao kỷ niệm về những người bạn văn, đời văn của ông./.

Tài liệu tham khảo:

Xem thêm chi tiết về Tô Hoài:

Tô Hoài (1920 - 2014)

  • 27 thg 11, 2022
  • 0

Ông là một nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật Đợt 1 (1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.

Tranh luật nhân quả trong cuộc sống

tranh_nhan_qua_6

Tranh luật nhân quả trong cuộc sống

tranh_nhan_qua_4

Liên Kết Chia Sẻ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.
-->