Hoàng Cơ Minh mất năm bao nhiêu?

Thông tin về năm mất và cuộc đời của Hoàng Cơ Minh

Trả lời:

Hoàng Cơ Minh mất năm 1987.

Thân thế và sự nghiệp của Hoàng Cơ Minh:

Ông nguyên là một tướng lĩnh Hải quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Hải hàm Phó đề đốc, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu ở trường Sĩ quan Hải quân được Chính phủ Quốc gia mở ra trên cơ sở cũ của Quân đội Pháp tại Duyên hải Trung phần. Ông nguyên là Tư lệnh Hải quân Vùng 2 Duyên hải (Hải khu II) của Quân chủng Hải quân Việt Nam Cộng hòa.


Đầu năm 1958, gần 2 năm sau khi từ Quân đội Quốc gia chuyển sang phục vụ cơ cấu mới là Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng cấp Hải quân Trung úy, giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Phân đội 4 thuộc Trục lôi hạm Bạch Đằng II HQ-116. Đến đầu năm 1961, ông được thăng cấp Hải quân Đại úy tại nhiệm.
Đầu năm 1963, ông được bổ nhiệm chức vụ Hạm trưởng Trục lôi hạm Bạch Đằng II HQ-116. Tháng 5 cùng năm được cử đi du học tu nghiệp tại trường hậu Đại học Hải quân Hoa Kỳ (US. Naval Post Graduate School) ở Monterrey thuộc Tiểu bang California. Tháng 10 mãn khóa học về nước, ông được cử làm Chỉ huy phó Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang do Hải quân Thiếu ta Dư Trí Hùng[2] làm Chỉ huy trưởng, kế tiếp Trung tá Nguyễn Đức Vân[3] thay Trung tá Hùng chức vụ Chỉ huy trưởng. Sau cuộc đảo chính 1 tháng 11, ngày 2 tháng 11 cùng năm ông được thăng cấp Hải quân Thiếu tá tại nhiệm.
Đầu năm 1965, ông được cử đi làm Tuỳ viên Quân lực ở Sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Seoul, Hàn Quốc do ông Ngô Tôn Đạt (là anh vợ của ông) làm Đại sứ.
Tháng 10 năm 1967, hết hạn nhiệm vụ Tuỳ viên Quân lực, ông được triệu hồi về nước. Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp Hải quân Trung tá, giữ chức vụ Trưởng khối Chiến tranh Chính trị (Trưởng phòng 5) tại Bộ tư lệnh Hải quân. Đến đầu năm 1969, ông được cử theo học lớp Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Đà lạt. Tháng 6 cùng năm mãn khóa về lại Bộ Tư lệnh Hải quân ông được giữ chức vụ Tham mưu phó Chiến tranh Chính trị.
Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1971, ông được thăng cấp Hải quân Đại tá và được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Lực lượng Thủy bộ 211. Ngày 1 tháng 4 năm 1974, ông được thăng Hải hàm Phó đề đốc, cấp bậc Chuẩn tướng tại nhiệm.
Đêm ngày 29 tháng 4, ông di tản ra khơi trên Tuần dương hạm Trần Nhật Duật HQ-03 do HQ Trung tá Nguyễn Kim Triệu làm Hạm trưởng. Khi sang tới Mỹ, theo hồ sơ di trú ông chỉ có 200 USD trong tài khoản và vài chiếc nhẫn.
Sau đó, ông định cư tại Sheraton, ngoại ô Washington D.C, Virginia, Hoa Kỳ, làm nghề sơn nhà cửa.
Tại nơi định cư, từ năm 1976 đến năm 1978, ông thành lập "Lực lượng Quân nhân Việt Nam Hải ngoại". Năm 1979, thành lập "Lực lượng Quân dân Việt Nam Hải ngoại".
Ngày 30 tháng 4 năm 1980, tại miền nam Tiểu bang California, ông thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam kết nạp một số sĩ quan và viên chức cũ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa làm nòng cốt.
Năm 1981, ông và các chiến hữu lập căn cứ tại một điểm gần biên giới Thái Lan - Lào thuộc huyện Buntharích, tỉnh Uđông (Thái Lan), cách Bangkok 500 km về phía Đông Bắc.
Ngày 10 tháng 7 năm 1982, tại căn cứ này, ông đã tổ chức Đại hội lập ra "Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng" gọi tắt là "Đảng Việt Tân", đưa ra cương lĩnh, xác định mục tiêu là xóa bỏ chế độ Cộng sản tại Việt Nam.
Ngày 27 tháng 12 năm 1983, ông lập ra đài phát thanh Việt Nam Kháng chiến và cho xuất bản tờ báo Kháng chiến bằng tiếng Việt, phát hành tại Mỹ và nhiều nước khác. Từ năm 1983 đến 1985, ông vào các Trại tỵ nạn người Việt trên đất Thái Lan tuyển mộ được 200 người đưa về căn cứ để huấn luyện và lập thành bốn Quyết đoàn mang bí số 7684, 7685, 7686, 7687. Mỗi Quyết đoàn có quân số khoảng 50 người.
Ngày 24 tháng 2 năm 1982, tại chiến khu U-Đông ông họp báo công bố cương lĩnh chính trị và sau đó bắt đầu tổ chức những đợt hành quân Đông tiến, xuyên Lào trở về Việt Nam.
Năm 1985, ông tổ chức cho chiến hữu Đặng Quốc Hiền, Tư lệnh Lực lượng Vũ trang Kháng chiến dẫn đầu 40 binh sĩ trở về Việt Nam. Toán xâm nhập bị quân Lào chặn đánh, Tư lệnh Đặng Quốc Hiền bị giết.
Ngày 15 tháng 5 năm 1986, ông và các chiến hữu tổ chức cuộc hành quân "Đông Tiến I" giao cho chiến hữu Dương Văn Tư,[6] Tư lệnh thay Đặng Quốc Hiền dẫn 100 quân xâm nhập Việt Nam. Ngày 19 tháng 9 năm 1986, khi vừa đặt chân lên biên giới Việt Nam toán quân của cựu Đại tá Dương Văn Tư bị Lực lượng Biên phòng Việt Nam (đồn 637), Lào và Campuchia chặn đánh và gây tổn thất.
Ngày 1 tháng 12 năm 1986, ông và các chiến hữu mở cuộc hành quân "Đông Tiến II" xâm nhập Việt Nam và đích thân chỉ huy. Khi toán quân chuẩn bị vượt sông Mekong thì bị liên quân Lào – Việt phối hợp bắn chặn nên buộc phải quay về căn cứ.
Ngày 7 tháng 7 năm 1987, ông trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân "Đông Tiến II" lần thứ 2 với mục tiêu xâm nhập Việt Nam đến Tây Nguyên, để xây dựng căn cứ. Theo kế hoạch, toán quân sẽ vượt sông Mekong, sang tỉnh Xalavan – miền Nam nước Lào rồi từ đó, dưới sự dẫn đường của 20 thổ phỉ Lào, sẽ đi về tỉnh Sêkông và xâm nhập khu vực ngã ba biên giới, thuộc tỉnh Kon Tum, Việt Nam.
Ngày 11 tháng 7 năm 1987, đoàn quân vượt sông Mekong vào đất Lào. Hai mươi ngày sau khi tiến gần đến biên giới Việt Nam thì bị quân đội Lào phối hợp với quân du kích chặn đánh tổng cộng 15 trận. Đêm 27 tháng 8 năm 1987, trong trận đánh cuối cùng ông bị thương và tự tử, toán quân tan rã, một số chạy về Thái Lan, một số bị bắt sống. Trong toán quân có 130 người xâm nhập vào đất Lào thì 83 chết, 19 bị bắt sống, số còn lại đã bỏ trốn. Tháng 12 năm 1987, tại Tp HCM, Tòa án Nhân dân tối cao của Việt Nam đã mở phiên tòa xét xử "Vụ án Hoàng Cơ Minh cùng đồng bọn" và tuyên phạt: 1 chung thân, 15 án từ 3 đến 19 năm tù giam, một án treo, 1 tha bổng). Tại phiên tòa này, dù đã tự sát trước đó, ông bị tuyên án tử hình vì tội phản quốc.

Tài liệu tham khảo:

Xem thêm chi tiết về Hoàng Cơ Minh:

Hoàng Cơ Minh (1935 - 1987)

  • 2 thg 12, 2022
  • 0

Ông nguyên là một tướng lĩnh Hải quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Hải hàm Phó đề đốc, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu ở trường Sĩ quan Hải quân được Chính phủ Quốc gia mở ra trên cơ sở cũ của Quân đội Pháp tại Duyên hải Trung phần. Ông nguyên là Tư lệnh Hải quân Vùng 2 Duyên hải (Hải khu II) của Quân chủng Hải quân Việt Nam Cộng hòa.

Tranh luật nhân quả trong cuộc sống

tranh_nhan_qua_0

Tranh luật nhân quả trong cuộc sống

tranh_nhan_qua_7

Liên Kết Chia Sẻ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.
-->